Sau khi trận đánh kết thúc Trận_Hattin

Vây hãm Jerusalem

Jerusalem bị vây, minh họa từ tác phẩm Historia của Guillaume de Tyr

Đến Jerusalem vào trước 20 tháng 9, Saladin và các công binh có thời gian nghiên cứu tường thành ở đây trong lúc quân đội lập trại. Bình minh ngày hôm sau họ tấn công góc tây bắc của tường thành khoảng giữa hai cổng Bab Yafa và Bab Dimashq. Cả hai bên đều hò reo xông trận và tên bắn xối xả về phía quân thủ thành. Tất cả các thầy y trong thành phố được trưng dụng để nhổ tên từ những người chết hay bị thương. Tác giả khuyết danh của cuốn De Expugnationae Terrae Sanctae kể lại rằng mình bị tên bắn trúng ngay sống mũi và rằng "đầu kim loại của nó còn ở đó mãi về sau". Nhiều loại máy bắn đá thi nhau bắn phá công, tường và tháp canh trong khi công binh của quân Cơ đốc ở hai tháp David và Tancred cố gắng bắn trả. Quân phòng ngự cũng chiến đấu điên cuồng và đôi lần xông ra phản kích phá khí khí tài và đẩy lính của Saladin về vị trí doanh trại. Một số phần phòng thủ bị bắn phá dữ dội bởi các máy bắn đá nhưng vẫn chưa đủ để mở một lỗ thủng. Hai bên giằng co nhau suốt năm ngày trời. Ánh nắng buổi sáng ngược về phía quân tấn công mang lại chút lợi thế cho phe phòng ngự nhưng vào buổi chiều tình thế ngược lại. Công binh Hồi thậm chí còn dùng máy mangonels bắn cát theo chiều gió để thổi vào mắt quân phòng ngự giúp cho các đội tấn công chiếm tường thành. Quân Hồi chịu tổn thất lớn, mất vị Emir Izz al Din Isa, người sở hữu lâu đài tuyệt đẹp Jabar nhìn xuống dòn sông Euphrates ở phía bắc Syria.

Đến ngày 25, Saladin nhận thấy quân mình không đạt được tiến triển gì ở bức tường phía tây nên cho cuộc tấn công dừng lại. Các máy ném đá được tháo dỡ, lều bạt được căng lên và quân đội rút về bên kia khu đồi. Có lúc quân phòng thủ tưởng cuộc vây hãm đã kết thúc xong vào ngày 26 quân Hồi tái xuất hiện ở phía bắc thành phố. Vì trông tầm cảnh giác của quân canh nên lính Hồi lập tức dựng hàng rào zaribas từ những cây ô liu đốn gần đó để bảo vệ vị trí của mình. Từ đây họ tấn công khu vực tường thành phía bắc cũng như một số vị trí phía bắc của tường phía đông. Nỗ lực chính nhằm vào khu vực Bab Dimashq,một điểm yếu cố hữu của tường thành ở đây nhưng một phần vị trí này lại có hai lớp tường thành kéo dài từ phía đông cửa Bab Sahirah. Vẫn còn có một lối nhỏ để thâm nhập ở khu vực phía đông bắc dọc theo các bức tường đủ chỗ cho một đội đột kích nhưng quá khó khăn vì kẹp giữa tường thành đôi.

Khoảng 40 máy ném đá dựng dựng lên để bắn đá và cầu lửa Hy Lạp. Có ít nhất một máy bắn đá đời mới mạnh hơn dùng đối trọng mà theo cận vệ của Balian d’Ibelin’s là Ernoul thì nó bắn tường thành ba lần mỗi ngày đến nỗi công binh Hồi phải làm cái mới khác. Ngày hôm sau Saladin tung ra ba tiểu đoàn công binh được trang bị giáp, họ dùng khiên để che chắn và được cung thủ bắn tên lửa hỗ trợ. Khi đến được hào thành họ bắt đầu phá hủy chân đế của tường thành. Những khí tài phức tạp được dựng lên tại chỗ, một số được che bằng tấp lợp gỗ chắc chắn, bên dưới đó các thợ công binh Hồi đào đứt phần móng tường. Một đường hầm đào trong hai ngày dài hơn 30m được chống bằng gỗ sau đó được đốt bỏ đã làm sập một mảng lớn tường thành vào ngày 29 tháng 9. Để đề phòng những cuộc phản kích từ cổng Bab Dimashq Saladin để một lực lượng lớn quân thiết kị túc trực sẵn sàng. Quân thủ thành thì bị mưa tên lửa ngăn cản việc họ bắn hạ công binh đối phương còn đạn từ các máy bắn đá rơi xuống khiến họ không thể gia cố chống lại đường hầm. Như vậy là không tồn tại cái gọi là mỏ đá của Solomon ở khu tường phía bắc giữa cổng Bab Dimashq và Bab Sahirah vì nếu công binh Hồi có thể đào hầm bên dưới thành phố thì họ đã làm việc mà chẳng bị trừng phạt gì.

Jerusalem thất thủ

Một cuộc phản công tuyệt vọng của tất cả quân Jerusalem với những ai còn ngựa và khí giới qua cổng Bab Ariha nhưng cũng không rõ tại sao họ lại chọn cổng này vì nó dẫn ra lối đi dốc xuống thung lũng Kidron. Có lẽ họ hy vọng băng được qua thung lũng để tấn công vào vị trí chỉ huy của Saladin ở núi Olives đối diện. Cũng có thể họ cố theo lối vòng dưới tường thành để đến tháp Laqlaq để đánh vào sườn quân Hồi. Dù ý định là gì thì nó cũng bị nghiền nát bởi quân thiết kị của Saladin.

Về phía 60.000 dân trong thành, kể cả người lánh nạn lẫn người Latin, người Syria-Jacobite, dân Chính thống giáo có nhiều ý kiến khác nhau nên và không nên làm gì lúc này. Giáo trưởng Heraclius và các lãnh chúa hứa thưởng 5000 đồng ‘bezants’, một số tiền khổng lồ và cấp khí giới cho mỗi đội 50 lính kị serjeant để phòng thủ lỗ hổng ở tường thành chỉ trong một đêm. Không ai chịu đồng ý vì rõ ràng là cuộc tấn công quyết định của Saladin đã đến gần. Mặc khác, một số đại diện công dân muốn tiến hành cuộc tấn công tự sát vào ban đêm thà chết trên chiến trận còn hơn chịu thảm sát trong các bức tường thành. Nhưng Heraclius khuyên cản họ, nhấn mạnh rằng việc hy sinh như vậy giúp họ được lên thiên đường nhưng cũng sẽ bỏ mặc phụ nữ và trẻ em ngược lại truyền thống Cơ đốc giáo.

Balian de Ibelin đem toàn bộ quân dân trong thành Jerusalem ra đầu hàng Saladin, từ tác phẩm Les Passages faits Outremer par les Français contre les Turcs et autres Sarrasins et Maures outremarins, khoảng năm 1490

Vào ngày 30 tháng 9, Balian d’Ibelin với tư cách cá nhân là bạn của Saladin được cử đến để gặp Saladin lúc ông này đang tiếp kiến các cộng đồng Thiên chúa không phải người Latin ở thành Jerusalem. Mối quan hệ giữa người Latinh và người Syria chưa bao giờ tốt đẹp và giờ đây đối với người Chính thống giáo cũng thế. Joseph Batit, một phụ tá thân cận của Saladin là người Chính thống giáo sinh ra tại Jerusalem đang thương thuyết với các đạo hữu để mở một công ra ở phía đông bắc nơi có đông cộng đồng này sinh sống.

Cuộc thương thuyết của Baliant khó khăn nhưng không kéo dài. Hai lần ông này xin tiếp kiến đều bị từ chối trong khi đó một cuộc tấn công của quân Hồi vào lỗ hổng bị đẩy lùi. Ngày hôm sau Balian trở lại thì được tin Saladin đang bàn bạc với các quan emir và cố vấn tôn giáo của mình.[14] Có nên vùi dập thành phố Thánh và tàn sát những người phòng thủ như chính họ đã làm với người HồiDo Thái vào năm 1099?[15] Saladin nhắc nhở Balian cách để đầu hàng trong danh dự tránh như cách mà phái đoàn của Jerusalem đã bị từ chối trong kinh miệt bên ngoài thành Ashkelon.[16] Ông ta cũng nhấn mạnh đã thề sẽ đoạt cho kì được Jerusalem và mình luôn là người biết giữ lời.

Saladin và Kitô hữu

Có lẽ tin rằng nếu tỏ ra yếu đuối sẽ làm tình hình tệ hơn nên Balian cũng dọa rằng nếu cần thiết quân trong thành có thể tự tay giết chết gia đình mình, giết gia súc và cả 5000 tù nhân Hồi vẫn năm trong tay họ, phá hủy vật báu, hủy luôn Vòm Vàng và Giáo đường Aqsa, một trong những công trình thiêng liêng của đạo Hồi, và sẽ liều chết tấn công "như thế chúng tôi sẽ chết vinh quang hay chiến đấu như hiệp sĩ". Dù lời đe dọa này nói lên sự cuồng tín của những hiệp sĩ thập tự chinh thứ nhất còn ở trong thành hay là một canh bạc tuyệt vọng thì cũng không ai biết được. Nhưng có vẻ như cả Saladin và thuộc cấp không ai muôn tiến hành thảm sát như vào năm 1099. Thay vào đó đề nghị đầu hàng trong hòa bình được chấp thuận vào ngày 2 tháng 10, ngày mà cờ hiệu của Saladin tung bay trên thành Jerusalem và các vị Emir tin cẩn chốt đóng ở từng cổng thành.

Người Cơ đốc không phải La tinh có thể ở lại nhưng những kẻ xâm lăng Thập tự phải ra đi. Mỗi người phải nộp 10 đồng dinar, phụ nữ 5 đồng và trẻ em 1 đồng.[17] Tổng số 30.000 bezant được phân phát cho 7000 người nghèo không thể tự nộp tiền chuộc thân.[18] Các chỉ huy quân đội rõ ràng không vui vì việc đem của cải của mình cấp cho người nghèo chuộc thân nên cũng có nghi ngờ rằng làm thế nào Heraclius có thể thuyết phục bọn họ. Người La tinh cố mang tất cả tài sản có thể mang đi nhưng phần nhiều được bán trong các chợ suq al askar vốn luôn đi theo đội quân của Saladin. Đến ngày thứ 40 vẫn còn nhiều người nghèo mắc kẹt vì không có tiền chuộc thân. Trong khi những người Cơ đốc giàu có chất đầy của cải lên đường đi đến bờ biển. Saladin tự mình trả tiền chuộc thân cho rất nhiều người nghèo. Các vị emir của Saladin phẫn nộ vì tư cách của bọn Cơ đốc giàu có nên thuyết phục Saladin tịch thu toàn bộ của cải bên ngoài cổng Bab Yafa. Saladin từ chối phá vỡ hiệp ước nhưng vẫn còn tới hơn 15.000 người mắc kẹt khi thời hạn chết đến.

Vài quý bà của Vương quốc cũng được tìm thấy trong thành phố. Sibylla, vợ của vua Guy bị bắt giữ và bị chuyển về gặp ông này ở thành phố Neapolis. Stephanie, vợ góa của Reynald de Chatillon, được đề nghị nhận lại con trai bị bắt trong trận Hattin đổi lấy sự đầu hàng của hai pháo đài Krak và Montreal. Khi Hai nơi này từ chối bà ta đã gửi con trai lại cho Saladin và như tự ái với hành động này Saladin cho phép bà ta nhận lại con mình. Trước khi các khoảng chuộc được trả hết thì người Hồi đã trở lại thành phố Thánh để cải đạo cho nó. Nhiệm vụ đầu tiên của họ là phải làm sạch rất nhiều công trình để thích hợp cho việc thờ phụng trở lại. Vào ngày 9 tháng 10 năm 1187, Saladin và nhiều sức sắc tôn giáo tiến vào Jerusalem để làm lễ cầu nguyện salat tại Thánh đường Al Aqsa. Các công trình lớn được tái phân phát trong khi phần lâu đài từng được sử dụng bởi Thượng phụ Heraclius của Jerusalem được giao cho các sufi để làm nhà nguyện. Trụ sở của dòng Cứu Thế được dùng làm trường đại học tôn giáo trong khi phần lớn các nhà thờ được chuyển sang các khu vực Kitô.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_Hattin http://www.britannica.com/EBchecked/topic/144695/C... http://books.google.com/books?id=7CP7fYghBFQC&pg=P... http://www.fordham.edu/halsall/source/1187hattin.h... http://digicoll.library.wisc.edu/cgi-bin/History/H... http://www.deremilitari.org //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... http://books.google.com.pk/books?id=qWZmdPiqMbwC&p... http://books.google.com.pk/books?id=qWZmdPiqMbwC&p... https://archive.org/details/hattinsaladinsgr00nico... https://archive.org/details/hattinsaladinsgr00nico...